GIA PHẢ HỌ KUT KUK THANG

"

Quá trình tạo lập Kút Kuk Thang

a) Kut Hamu Kuk Thang:

Mặc dù là Kut vô chủ đến nay vẫn chưa xác định được thuộc dòng dõi nào của người Chăm, chỉ có điều rất linh thiêng nên thế hệ trước đã thừa nhận có sự ràng buộc từ cõi âm nên mới phán cho con cháu phải có trách nhiệm phụng sự và đặt vai trò lên cao hơn Muk Kay mình, chính Kút này đã che chở cho Muk Kay và con cháu tộc họ có được như hôm nay, cho nên phải ứng xử thế nào cho hợp với đạo lý ‘Ăn quả nhớ người trồng cây’, cho an yên cả thế hệ mai sau, đó là vấn đề trăn trở của cả tộc họ.

Kút nguyên thủy chỉ có Ram Kút với 03 hòn đá được chạm trổ hoa văn cổ, tọa lạc trên đất gò thuộc vùng ruộng Kuk Thang (nên thường gọi Kut Hamu Kuk Thang) là mảnh đất của ông bà chia lại cho 2 gia đình bà Đặng và bà Klét thừa hưởng cho đến ngày giải phóng, nhà nước trưng thu đưa vào HTX (hết canh tác từ năm 1977).Có 03 lần di dời và thay đổi hình thức từ Ram Kút thành Thang Kut, từ 03 hòn đá nâng lên thành 05 hòn đá như Kút chính và có vị trí rất thuận lợi để hành lễ.

b) Ram Kút tộc họ Muk Chek Chơk-Chek Va-Ôn Peh

Từ ý tưởng ‘Chim có tổ, Người có tông’ các tộc họ trong làng đều có Ram Kút, số hài cốt thời điểm đó cũng nhiều (19 hài cốt), thời gian cũng đã lâu cũng lo sợ để lâu quá biết có biến cố gì xảy ra, từ đó tộc họ mới triệu tập những người lớn tuổi để bàn thảo cách làm, tổ chức đi nhiều nơi để tham khảo, tham vấn các vị chức sắc, chức việc nhất là ông Cả sư chủ trì tháp PôRôMê, đưa ra nhiều phương án, chọn nhiều địa điểm để xây dựng,… quá trình chuẩn bị này rất nhiều năm mới đi đến thống nhất chọn vị trí Ram Kút cùng tọa lạc kề với Kút Hamu Kuk Thang như hiện tại, Ram Kút hoàn toàn mới và có hình thái riêng theo sự sáng tạo của ông Phú Văn Thiệt và các cộng sự (Phú Vàng, Phú Văn Mái, Đổng Đời, Lộ Phú Lâu, Dương Tấn Điền, Bá Lực, Lưu Quang Hàm, Trượng Văn Bưởi,…) cùng với nhóm thợ tay nghề (Thiên Cổ, Phú Thành Quân,…), thời điểm đó chưa có tường rào tộc họ nào cũng vậy, sau khi hoàn tất Ram Kút mới tổ chức lễ nhập Kút lần đầu của tộc họ vào tháng 6 Chăm lịch năm 1979. Đến năm 1982 mới xây tường rào từ nguồn đóng góp của các thành viên trong tộc họ và một phần từ hỗ trợ của con cháu ở Hải ngoại (Mỹ), có tổ chức lễ khánh thành kết hợp với ngăk Muk Kay rất hoành tráng vào thời điểm này

"