GIA PHẢ TỘC HỌ LÝ KHANH CHƠK (Lưu Xuân Ngôn)
(Phả hệ: Muk Cheh Chơk-Cheh Va-Ôn Peh)
Thực hiện Quy chế của Tộc họ, ý kiến ủy quyền của Tộc trưởng Phú Văn Mái (hiện định cư ở Mỹ), Ban điều hành đã xây dựng Đề cương giao cho Ban biên soạn trực tiếp đi thu thập tư liệu để cùng chấp bút, có tham khảo ý kiến các chuyên gia. Sau thời gian biên soạn đã được chỉnh sửa, bổ sung và góp ý mới hoàn thành tập Gia Phả đầu tiên của Dòng tộc với các nội dung, bố cục như sau:
I. Phần thứ nhất: Bối cảnh lịch sử trước và sau khi xây dựng dòng tộc Kut Kuk Thang (Muk Cheh Chơk-Cheh Va-Ôn Peh).
1/ Khái quát quá trình xây dựng Dòng tộc và tạo lập Kut của cộng đồng Chăm Ahier vùng Panduranga (tỉnh Ninh Thuận-Bình Thuận ngày nay)
Dân tộc Chăm đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, có ngôn ngữ riêng và chữ viết riêng, có một nền văn hóa đặc sắc, đặc trưng được bảo tồn duy trì và phát triển tại vùng Panduranga. Tổ chức Dòng tộc là một loại hình văn hóa tâm linh phổ biến tại các làng Chăm đã có từ lâu đời kể cả Chăm Ahier và Chăm Aval. Dòng tộc Chăm Ahier gắn liền với việc tạo lập Kút (theo luân hồi: Sinh-Tử-Leihaia-Hỏa táng-Ngăp padhi- Patrip-Mư Kút-ngăp kut), còn Chăm Aval gắn liền với việc tảo mộ (Sinh-Tử-ngăp padhi-chôn- nao Khul-ngăp Mukei), mỗi dòng tộc có một Kut riêng (giai đoạn đầu chỉ là Ram Kut) với lễ tục riêng và Ciet prok riêng (ngoài những đặc điểm chung theo qui ước của từng đền tháp). Các thế hệ trước hoạt động của Dòng tộc được lưu truyền qua lời nói, tập tục để cụ thể hóa các nghi thức, hành lễ trong sinh hoạt tâm linh của Tộc họ mình theo một hình thái riêng dưới sự điều hành từ ông Tộc trưởng (thường là họ Likei, người có vai vế lớn được cả họ bầu hoặc chỉ định). Sau năm 1975 (sau khi thống nhất đất nước Việt Nam vào ngày 30/4/1975) cùng với xu thế phát triển chung, tổ chức Dòng tộc được Chính quyền quan tâm hỗ trợ và tạo điều kiện để khôi phục, phát triển theo truyền thống của dân tộc mình, đã có hướng dẫn chung về Quy chế tổ chức và hoạt động của Dòng tộc, từ đó mỗi Dòng tộc đã tự xây dựng Quy chế, Quy ước và kế hoạch hoạt động của tộc họ mình để thực hiện phù hợp với từng địa phương và Khu vực Đền Tháp gắn với việc bảo tồn và phát triển văn hóa, an ninh trật tự trong Dòng tộc mình quản lý.
Đối với Tộc họ Lý Khanh Chơk (Lưu Xuân Ngôn), tổ chức hoạt động có phần chậm hơn so với các Tộc họ khác trong làng, nhất là việc tạo lập Kut mãi đến năm 1979 mới hình thành được Ram Kut tại vị trí đất ruộng Hamuh Kuk Thang, sau đó mới tổ chức Lễ nhập Kut lần đầu với 19 hài cốt cùng phả hệ đầu tiên của Tộc họ mình (19 hài cốt trong đó: có 10 nữ và 9 nam). Tại sao chậm và vì sao lấy tên Kut như ngày nay: Kut Muk Cheh Chơk-Cheh Va-Ôn Peh( gọi theo địa danh là Kut gep Kuk Thang) là do những người tiền bối và những người trong cuộc vào thời kỳ đó đặt ra, duy trì đến nay. Nên Ban biên soạn chỉ kế thừa và lý giải cho rõ thêm nguyên nhân:
- Về tên gọi:Theo huyết thống thì ông Lý Khanh Chok (Lưu XuânNgôn) là Tổ phụ (Gep Likei), nguồn cội sinh ra các thế hệ con cháu cùng phả hệ Muk Cheh Chok-ChehVa-Ôn Peh ngày nay (xem sơ đồ II, cây gia phả), nên trong tập Gia phả này lấy tên Ông (Lý Ngôn là tên chức danh, Lưu Xuân Ngôn là tên khai sanh, Lý Khanh Chok là tên thường gọi) là đúng theo cơ sở khoa học, còn theo Chế độ Mẫu hệ đặt tên Dòng tộc là Kut Muk Cheh Chok-Cheh Va-Ôn Peh (gọi theo địa danh là Kut gep Kuk Thang) lấy theo họ Mẹ (guau Kumay) đúng với truyền thống của dân tộc Chăm theo đạo Bà La Môn tại vùng Panduranga (tỉnh Ninh Thuận ngày nay).Thống nhất đặt tên Gia phả là “Lý Khanh Chok (Lưu Xuân Ngôn)” và tên Dòng tộc là “Kut gep Muk Chek Chok-Cheh Va-Ôn Peh”.
- Về lý do chậm:Thời kỳ đó chiến tranh ác liệt và kéo dài, dân làng khắp nơi cùng nhau chạy giặc đi ẩn nấu tứ xứ, việc định cư cũng chưa ổn định lâu dài một chỗ, nơi sinh hoạt đều bị xáo trộn nên việc tổ chức Dòng tộc khó định hình. Đối với Dòng tộc ta thì còn phụ thuộc vào Tộc họ Ná và những người thân tộc lúc bấy giờ cho đến khi những người thân tộc quá cố đã nhập vào Kut họ Ná (Gồm: ông Lưu Xuân Hưng, Lưu Xuân Ngôn, Muk Cheh Kây, Dồn Nai và bà Thang Ôn..theo Sơ đồ 01) thì mới hết ảnh hưởng trong sinh hoạt nhất là về lễ nghi, từ đó mỗi gia đình độc lập trong sinh hoạt và đời sống theo từng nhánh gia đình Mẫu hệ, đến năm 1979 thì tiến hành củng cố xây dựng Dòng tộc chung cùng phả hệ Muk Cheh Chok-Cheh Va-Ôn Peh như ngày nay.
Cũng có giả thuyết cho rằng: Vào thời kỳ đó, người còn ít, kinh tế còn khó khăn, còn mất an ninh nên chưa được chú trọng để xây dựng Dòng tộc và tạo lập Kut cố định; đến khi ổn định tại làng Hậu Sanh (Palei Thuen) lại có sự đắn đo giữa 2 Kok (môn) cùng Mẹ khác Cha lại có 2 Ciet Prok cùng tồn tại chưa lý giải được với nhau (vì Ciet prok bên nhánh bà Ọt là kế thừa của bà Thang Ôn để lại thuộc Tộc họ Ná dòng 04 Pa seh, còn Ciet prok mới lập thuộc nhánh gia đình bà Đặng, bà Klet dòng 02 Pa seh, tuy cùng dòng Yang Thik như nhau nhưng mỗi bên đều đưa ra lý lẽ của mình là gốc từ đó kéo dài cho đến năm 1979 mới ngã ngũ thành lập Tộc họ chung như bây giờ. (Dựa vào huyết thống thì nhánh gia đình bà Ọt với bà Đặng là chung dòng huyết với nhau theo họ Mẹ (Gep Kumay) nên không thể tách rời được về huyết thống cũng như về tâm linh)
"