Giai thoại của Ôn Lý Khanh Chok (Lưu Xuân Ngôn) qua các lời kể.
Vào thời kỳ phong kiến (Triều nhà Nguyễn-Pháp thuộc) gia đình nào có nhiều đất đai, của cải thì có quyền thế, nên Ông được làm Lý trưởng, còn anh thì làm Chánh tổng, cả gia đình có 04 anh em gồm: 02 trai và 02 gái thuộc gia tộc họ Lưu, di cư về sống tại làng Hậu Sanh, rồi dời Kut về lấy tên Kut gep Ná. Đây là vùng đất “ Địa linh nhân kiệt”, sinh ra nhiều nhân tài nên có vè dân gian còn lưu truyền:“Play Thuen ton Yuen lilăm rak, ton ak lilăm suh, ton kuh lilăm pal, ton iala thik plan..”. Có nghĩa là: làng Hậu Sanh thời đó đã có người tài giỏi dám đương đầu với mọi nghịch cảnh mới có kỳ tích để lại cho hậu thế, và trong đó có Người trai trẻ, tài trí và dũng cảm vượt qua cả ý thức hệ dám đột phá qua nhiều rào cản từ gia đình, đến xã hội đương thời để tạo nên một Dòng tộc mới, một nhân tố mới đi trước thời đại mà chưa ai tiên lượng được.
Ông(Lý Khanh Chok) xuất thân từ bối cảnh như vậy, lớn lên làm Lý trưởng cai quản cả làng Hậu Sanh nên thường xuyên đi nộp thuế tại Ngân khố Phan Rang thời bấy giờ (phương tiện đi thường bằng ngựa),với lộ trình từ làng Hậu Sanh đi qua Phú Quý đến Bình Quý rồi dừng chân tại Long Bình để nghỉ ngơi ở quán tạp hóa của bà Lệ (Trần Thị Lệ quê ở Phước Thiện, ông Nguyễn Văn Tân quê ở Phước An đến Long Bình lập nghiệp mở quán buôn bán tạp hóa), gia đình bà có 1 đứa con gái duy nhất tên là Chuồng (Nguyễn Thị Chuồng) càng lớn càng xinh đẹp nên được ông Ngôn để mắt, sau thời gian làm quen rồi hai người yêu nhau, nhưng cả hai bên gia đình không chấp nhận vì khác chủng tộc (Kinh-Chăm), khác tôn giáo là điều cấm kỵ rất nghiêm khắc và chưa có tiền lệ Chăm-Kinh lấy nhau nhất là thuộc gia tộc có quyền thế vào thời đó. Vì quá yêu thương nhau nên hai người bất chấp, chỉ nghe tiếng gọi của trái tim, rồi tìm mọi cách lén lút đến với nhau trong điều kiện rất éo le, dằn vặt luôn bị theo dõi và ngăn cấm, dù vậy họ vẫn vụng trộm với nhau sanh được một đứa con gái đầu tiên đặt tên là Từ (có nghĩa là bị từ chối do cha mẹ phía bên vợ không thừa nhận cuộc hôn nhân này), tưởng có con rồi thì cha mẹ sẽ đồng ý cho hai người kết hôn với nhau nhưng sau đó lại càng siết chặt và quản lý gắt gao hơn cho đến khi Bà sanh thêm 03 đứa nữa vẫn không tác hợp cho cuộc hôn nhân rất bi ai này (đứa thứ hai đặt tên là Lợi có nghĩa là lợi dụng sơ hở để dan díu với nhau, và đứa thứ ba là con trai đặt tên là Tam và thứ tư là Lục). Vì bị dằn vặt về mặt tinh thần và khó khăn trong đời sống, nên khi bà lâm trọng bệnh mặc dù cả gia đình dồn sức cứu chữa nhưng vẫn không qua khỏi, Bà qua đời tại Long Bình khi tuổi đời còn rất trẻ để lại 04 đứa con, gồm 02 gái và 02 trai đặt tên theo họ mẹ: Nguyễn Thị Từ, Nguyễn Thị Lợi, Nguyễn Văn Tam và Nguyễn Văn Lục.
Sau khi mai táng chôn cất xong, do bên cha mẹ vợ không chấp nhận dòng máu ngoại tộc vì khác tôn giáo với mình nên đồng ý giao 04 đứa con cho Ông đem về làng Hậu Sanh nuôi dưỡng, rồi lập nghiệp, xây dựng thành Dòng tộc riêng theo Chế độ Mẫu hệ như ngày nay, còn vợ chồng ông Tân (bà Lệ) vì buồn bã mất con không có người thừa kế dòng dõi nên nghỉ bán quán tạp hóa hồi hương về quê cũ ở Phước An rồi mất liên lạc kể từ đó. Đưa 04 đứa con về đến quê nhà (làng Hậu Sanh ngày nay), lúc đó còn quá nhỏ nên được cha mẹ của Ông cho sống chung với gia tộc mình (gia tộc họ Lưu giàu có thời đó) và đổi lại tên theo danh xưng của người Chăm như sau:
1.Nguyễn Thị Từ, đổi tên là Muk Cheh Chơk.
2.Nguyễn Thị Lợi, đổi tên là Muk Cheh Va.
3.Nguyễn Văn Tam, đổi tên là Ja Nhằng, sau là Ôn Peh.
4.Nguyễn Văn Lục, đổi tên là Ja Chăng (sau lâm bệnh chết sớm lúc còn nhỏ).
Sống chung với nhau một thời gian thì Ja Chăng lâm trọng bệnh chết sớm lúc còn nhỏ, Ja Nhằng thì chết đi sống lại nhiều lần vì dịch bệnh nên còn gọi là ôn Peh có nghĩa là người sống sót và chỉ còn 03 người (02 giá, 01 trai) sống sót cho đến khi trưởng thành (thời kỳ đó dịch bệnh lan tràn không có thuốc men chữa trị nên bị chết nhiều). Sau khi cha mẹ mất sớm, ông Tông Hưng thay mặt quản lý gia đình rồi qua đời, lúc đó ông toàn quyền mới có thể giao các con của mình cho cháu ruột là bà Thang Ôn để nuôi dưỡng (vì bà không có con nhằm để kế thừa sau này theo lời kể của ông Lưu Ngọc Hiến). Từ đó cả 03 đứa con (02 gái, 01 trai) của ông Lý Khanh Chok cùng sống chung với gia đình bà Thang Ôn, là thế hệ đầu tiên cùng chung huyết thống với gia tộc họ Lưu và sinh hoạt theo nghi thức Mẫu hệ thuộc Kut họ Ná cho đến khi bà Thang Ôn qua đời thì không còn sinh hoạt chung nữa.
Có một số sự kiện diễn biến trong quá trình sinh hoạt để lại hệ quả đến nay chưa được sáng tỏ:
-Lúc cùng sống chung với gia đình bà Thang Ôn, do bà không có con để thừa kế vì bà không muốn giao tài sản và Ciet prok cho Tộc họ Ná theo như luật tục của người Chăm thời đó (và đến nay vẫn còn duy trì nếu không có con gái thừa kế thì tài sản phải để lại cho bà con thân thuộc trong Tộc họ mình thừa hưởng), nên mới tính nhận mấy đứa em của mình làm con nuôi để thừa kế bà sau này, lúc đầu dự định bắt bà Ọt nhưng vì lý do nào đó bà Ọt không chịu, cho đến khi bà Ọt có con gái lớn là bà Hấu (mẹ của ông Bì), bà Hấu ngay từ lúc còn nhỏ đã muốn làm con nuôi cho bác mình nên đêm đêm cứ đến nằm trước cửa cái nhà bà Thang Ôn, lâu dần bà động lòng mới chịu nhận bà Hấu làm con nuôi từ lúc còn nhỏ cho đến lớn phong lên làm chức bà bóng (Muk Rija) phục dịch Ciet prok riêng của bà, và thừa hưởng toàn bộ tài sản để lại mà không ai tranh được kể cả bên Tộc họ Ná. Sống chẳng bao lâu bà Hấu lâm bệnh chết sớm do không có con gái thừa kế (bà có 02 con: 01 trai 01 gái, con gái tên Mến mất sớm) khi đó ông Trượng Hào là cháu của bà Thang Ôn mới đưa bà É Thâu (là con của bà Rố Kok) kế thừa làm bà bóng đến khi bà bệnh chết rồi truyền lại cho bà Mùa (là con bà Thành Kok), sau khi bà Mùa lâm bệnh qua đời mới đôn cháu ruột của bà là Huyền Trâm (con ruột của Lan-Lâu) lên làm bà bóng cho đến nay. Như vậy, Ciet prok hiện nay có nguồn gốc từ thời bà Thang Ôn thuộc Tộc họ Ná (nay thuộc Chi bà Nhơ Va) nên vẫn còn giữ tục lễ koak kađeh kabao (xe trâu chở lễ Mum) mỗi khi bên Tộc họ Ná cúng Muk kei.
- Sau biến cố riêng tư vào thời điểm đó giữa bà Thang Ôn với bà Cheh Chok vì bà có lời thề độc không còn thừa nhận chị em với nhau, nên bà Chek Chok (và các con cháu dòng đời sau khi bà tái hôn với ông Bôn Tây) phải tách ra riêng kể cả gia đình Muk Cheh Va chỉ còn gia đình bà Ọt trụ lại ở với bà nên lúc đó nhánh gia đình bà Ọt rất giàu có và sung túc. Không còn quan hệ với nhau cho đến khi bà Thang Ôn qua đời, mặc dù lúc đó có làm thủ tục chuộc lỗi “êu lithei neh xari” bà vẫn không tha thứ, nênnhánh gia đình bà Đặng và bà Lý không được thụ hưởng Ciet prok gốc của bà kể cả tài sản cũng không được chia là như vậy, và chỉ đượcchia đất ruộng của ông bà để lại tại xứ đồng Hamu Kuk Thang cho mỗi gia đình 10 giạ giống để làm ăn, sau được ông Chủ trực tiếp hướng dẫn khai khẩn thêm đất đai mới tạo nên của cải giàu có nhất trong làng vào thời điểm đó. Số ruộng được chia (30 giạ giống) có nguồn gốc từ ông bà để lại thuộc gia sản của Tộc họ Ná, đã có sự kế thừa về thủ tục cúng đất từ đó, cho đến sau này với nhiều biến cố xảy ra (ông Quang tử trận chết, ông Danh bị trúng mìn, và nhiều người bệnh bất đắc kỳ tử..) cả Tộc họ mời Cei Râm Mưh (ở Bĩnh Nghĩa) xuống đồng thì Muk kei đã phán bắt phải chịu phục dịch Kut hamu Kuk Thang mới được yên ổn cho đến nay, đến lúc tạo lập Ram kut cũng chỉ định phải làm tại vị trí như hiện tại mà con, cháu chúng ta đang thụ hưởng và phụng sự đến giờ. (Gốc tích đất ruộng Hamuh kuk Thang là từ ông bà để lại thuộc gia sản của Tộc họ Lưu)
- Sau khi bà Đặng tái hôn với ông Phú Văn Thơ (làm Chánh tổng) khi đã giàu có mới tạo lập Ciet prok riêng cho nhánh gia đình mình kể cả gia đình bà Klet cùng chung phụng sự không còn lệ thuộc vào Tộc họ Ná nữa. Vào thời điểm này bên nhánh gia đình bà Ọt muốn giao lại Ciet prok cho Tộc họ Ná để cùng sinh hoạt chung nhưng không được thừa nhận (vì bà Thang Ôn xuống đồng răng đe buộc cả 2 bên cùng chấp nhận phụng sự riêng cho đến nay, theo lời kể của bác Thị là vợ của ông Phú Vàng).
- Sau khi Ông (Lưu Xuân Ngôn- Lý Khanh Chok) qua đời, các con cùng với anh em, Tộc họ Ná tổ chức làm đám tang 04 Pa Seh và nhập vào Kut gep Ná ngap Patra đúng theo nghi thức Mẫu hệ thời bấy giờ, đến đời các con của ông do chưa có tiền lệ vì thuộc máu mủ Likei lại con hai dòng máu (theo qui định các con của ông không được nhập vào Kut họ Ná) nên thời điểm đó chỉ tiến hành làm đám tang 02 Pa seh và lưu giữ hài cốt mãi đến năm 1979 mới được tiến hành tổ chức lễ nhập Kut lần đầu của Tộc họ đúng nghi thức Chăm Bà La Môn (gồm 19 hài cốt kể từ thời Muk Cheh Chok-Cheh Va-Ôn Peh và các con, cháu của mình nên Dòng 02 Pa Seh và các thủ tục hành lễ của Tộc họ duy trì đến nay xuất phát từ thời điểm đó với bối cảnh của lịch sử là như vậy).Từ đó, mới có Quy ước như luật tục của Tộc họ: Cánh gia đình bà Ọt chịu phục dịch Ciet prok gốc của bà Thang Ôn để lại và nghi lễ koak kađeh kabao, êu lithei vào tháng 07 Chăm lịch hàng năm. Còn cánh gia đình bà Đặng và gia đình bà Klet phục dịch Ciet prok mới lập, cúng đất ruộng hamu Kuk Thang và êu lithei vào tháng 09 Chăm lịch cùng một số lễ tục chung đã cụ thể hóa trong Quy chế của Tộc họ đang hành lễ như hiện nay. (chi tiết theo Quy chế của Tộc họ đã ban hành).
Nguồn gốc Mẫu hệ cùng Ciet prok Tộc họ :
-Gốc tích theo Chế độ Mẫu hệ xuất phát từ thời Muk Cheh Chok-Cheh Va-Ôn Peh với nhiều nghịch cảnh xảy ra để lại nhiều ẩn khuất đến nay chưa giải tỏa được, vì
Muk Cheh Chok có 02 đời chồng: đời chồng trước (là ông Nuk Pa) sanh ra cánh gia đình bà Ọt, được bà Thang Ôn nhận làm con nuôi ở chung với bà và thừa kế gia sản kể cả Ciet prok để thờ phụng cho đến giờ, còn đời chồng sau (là ông Bôn Tây) sanh ra cánh gia đình bà Đặng, còn Muk Cheh Va (chồng là ông Poh Lo) sanh ra cánh gia đình bà Klet, tại thời điểm này do có mâu thuẫn trong đời tư giữa bà Thang Ôn với bà Chek Chok nên không còn ở chung với nhau nữa và ra ở riêng nên mới lập Ciet prok mới cho nhánh gia đình mình cùng gia đình bà Klet được duy trì đến nay. Riêng Ôn Peh thuộc li kei đi lấy vợ ở Hiếu Thiện khi qua đời cũng được hỏa táng theo tục dòng 02 Pa seh và nhập chung Kut cùng thời điểm đó.
khi cánh gia đình bà Đặng(là con của Muk Cheh Chơk đời chồng sau) giàu có lên và có chức phận (chồng làm Chánh tổng) thì mới tiến hành lập Cietprok để phục vụ cho cánh gia đình mình (bao gồm cả gia đình bà Klét là con của Muk Chek Va), nên thời điểm này có 2 Ciet prok cùng tồn tại trong cùng trực hệ Muk Cheh-Chơk-ChehVa- Ôn Peh, nhưng tính chất hoạt động về tín ngưỡng và ý nghĩa tâm linh thì khác nhau: Ciet prok hiện tại (bên nhánh gia đình bà Ọt đang phục dịch) là thuộc Chi tộc họ Ná chỉ kế thừa phục vụ cho Prok Patra của Tộc họ Kut Ná (trong đó có gia tộc họ Lưu) nên phụ thuộc vào nghi lễ của Tộc họ Kut Ná, trải qua một thời gian được Muk kei (bà Thang Ôn) đăm phải chịu phục dịch lâu dài cho đến nay coi như bảo vật riêng của nhánh gia đình bà Ọt mà hiện nay con, cháu đang kế thừa. Còn Ciek prok mới lập thời bà Đặng và bà Klet là Ciet prok riêng phục vụ cho Muk kei chung dòng 02 Pa seh, là sơ khai của Dòng tộc theo Chế độ Mẫu hệ thuộc trực hệ Muk Cheh Chok-Cheh Va-Ôn Peh ngày nay.
Ciet prok mới lập giao cho người đầu tiên làm bà bóng (Muk Rija) là bà Lưu Thị Thế Ai (con ruột của bà Đặng), khi bà chết (năm 1949 do tai nạn chiến tranh) mới giao lại Ciet Prok cho bà Lưu Thị Ba Ga (là em kế cũng là con bà Đặng), sau này vì Bà vừa già yếu sức khỏe không đảm bảo nên mới đôn cháu Ngọc Ánh (con của bà Lưu Thị Bạch Bưởi) lên làm Muk Rija để phục vụ Ciet prok cho đến ngày nay.
"